Abstract
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định mật độ ương cá Chép phụng đạt hiệu cao. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức về mật độ ương khác nhau: 200, 250 và 300 con/m2. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Moina và trùn chỉ được sử dụng làm thức ăn cho cá Chép phụng. Thí nghiệm được thực hiện trong 6 tuần. Kết quả đã cho thấy tỷ lệ sống trung bình của cá cao nhất (88 ± 2,9%) ở nghiệm thức 200 con/m2 và thấp nhất (70 ± 1,0%) ở nghiệm thức 300 con/m2. Khối lượng cuối trung bình của cá cao nhất (3,14 ± 0,13g) ở nghiệm thức 200 con/m2, thấp nhất (2,16 ± 0,32g) ở nghiệm thức 300 con/m2 và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa nghiệm thức 200, 250 con/m2 so với nghiệm thức 300 con/m2. Đồng thời, sự tăng trưởng khối lượng theo ngày và tốc độ tưng trưởng đặc biệt trung bình của cá ở nghiệm thức 200 con/m2 cao nhất (0,07 g/ngày, 16,56 %/ngày) thấp nhất là ở nghiệm thức 300 con/m2 (0,05 g/ngày, 15,67 %/ngày). Bên cạnh đó, chiều dài cuối trung bình, sự tăng trưởng chiều dài trung bình theo ngày của cá ở nghiệm thức 200 con/m2 cao nhất (56,4 ± 3,0 mm, 1,18 mm/ngày) và thấp nhất (48,8 ± 1,4 mm, 0,998 mm/ngày) ở nghiệm thức 300 con/m2. Như vậy, mật độ ương cá Chép phụng 200 con/m2 đã cho hiệu quả cao.